Cần định hình rõ nét hướng đi phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam

|

Cần định hình rõ nét hướng đi phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam

Trong thời đại mới, phát triển văn hóa được xác định là một nội dung quan trọng, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn khẳng định thương hiệu quốc gia, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa đất nước. Để có một hành trình dài hạn, Việt Nam đã ban hành các Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đến năm 2030. Đến nay, thị trường Việt Nam đã hình thành một số thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa có chất lượng. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận một thực tế là ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam còn thiếu các sản phẩm văn hóa đại chúng, chưa có sức thu hút đối với khán giả trong nước và quốc tế.
 

Công nghiệp văn hóa Hàn Quốc nhìn từ làn sóng Hallyu

Sự kiện nhóm nhạc Kpop Blackpink sẽ tổ chức hai đêm nhạc hoành tráng tại Hà Nội vào cuối tháng Bảy đang gây sự chú ý lớn tại thị trường Việt Nam. Suốt những ngày qua, giới trẻ Việt Nam hào hứng canh vé, giữ vé bởi sức mạnh bùng nổ như “chất gây nghiện” của nhóm nhạc này. Blackpink là nhóm nhạc nổi tiếng4 cô gái tài năng, được đào tạo và cho ra mắt bởi YG Entertainment - một trong những công ty giải trí hàng đầu và nhiều năm kinh nghiệm trong ngành công nghiệp Kpop. Blackpink thu hút hàng triệu người hâm mộ bởi những ca khúc pha trộn giữa nhịp điệu hip-hop mạnh mẽ với house, EDM và nhiều thể loại khác, tạo ra một loạt “hit” khuấy đảo toàn cầu. Các MV của Blackpink ngập tràn màu sắc và vũ đạo sáng tạo, thể hiện tinh thần phóng khoáng, độc lập, mạnh mẽ, cá tính của phụ nữ, truyền tải đến giới trẻ những năng lượng tích cực.

Đằng sau sự nổi tiếng của nhóm nhạc Blankpink là cả một chiến lược bài bản của Chính phủ Hàn Quốc và câu chuyện thành công của Làn sóng Văn hóa Hallya.

Với quan điểm phát triển "ngành công nghiệp không khói" sẽ thúc đẩy giá trị gia tăng cao trong khi vốn đầu tư tài nguyên lại tương đối thấp so với các ngành công nghiệp khác, Hàn Quốc lựa chọn hành trình ngược “văn hóa đi trước, kinh tế theo sau” và thực hiện chiến lược phát triển văn hóa dài hạn được các nhà lãnh đạo triển khai qua nhiều thời kỳ.

Một dấu mốc đậm nét về chính sách văn hóa dài hạn đầu tiên của Hàn Quốc là Kế hoạch tổng thể phát triển văn hóa lần thứ nhất, được đề xướng bởi Chính phủ Tổng thống Park Chung Hee vào năm 1973, dựa trên nền tảng Đạo luật khuyến khích văn hóa và nghệ thuật, ban hành năm 1972. Qua nhiều giai đoạn phát triển, mặc dù các mục tiêu của từng thời kỳ có những thay đổi theo hoàn cảnh cụ thể của đất nước, song định hướng xuyên suốt trong chính sách văn hóa Hàn Quốc làXây dựng bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển văn hóa, nghệ thuật; nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của nhân dân và thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa” và hướng đến mục tiêu đưa Hàn Quốc trở thành một trong 5 cường quốc phát triển văn hóa đại chúng và quảng bá hình ảnh quốc gia với thế giới.

Với định hướng như vậy, trong thời gian dài, Hàn Quốc liên tục duy trì các chính sách phát triển văn hóa thể hiện một tầm nhìn là động lực thúc đẩy kinh tế và sức mạnh quốc gia như: Hàn Quốc sáng tạo (Creative Korea) năm 2004; Kế hoạch phát triển nghệ thuật trung hạn và dài hạn “Sức mạnh của nghệ thuật”  năm 2004, C- Korea 2010...

Một thành công trong phát triển văn hóa ở xứ sở kim chi là đã lan tỏa mạnh mẽ Làn sóng Văn hóa Hàn Quốc - Hallya. Thuật ngữ “Hallyu" xuất hiện từ giữa những năm 1990, khi các bộ phim truyền hình và sản phẩm âm nhạc đại chúng của Hàn Quốc vượt khỏi biên giới quốc gia, chinh phục khán giả quốc tế. Năm 2023, cựu Tổng thống Hàn Quốc Kim De-jung đánh giá cao vai trò của làn sóng Hallyu và xem đây là phần ưu tiên trong số các chính sách kinh tế Hàn Quốc.

Bên cạnh BlackPink, trong làn sóng Hallyu còn có nhiều nhóm nhạc đình đám khác, nổi bật nhất trong đó phải kể đến nhóm BTS - nhóm nhạc nam gồm 7 thành viên. Kể từ khi thành lập năm 2013, BTS liên tục tạo tiếng vang lớn trong thị trường âm nhạc quốc tế, đưa hình ảnh và văn hóa Hàn Quốc lan tỏa khắp thế giới. Năm 2022, các chàng trai Kpop đã lập 3 kỷ lục thế giới mới về lượng người theo dõi trên các nền tảng mạng xã hội Instagram, TikTok và Twitter. Các thành viên trong nhóm nhạc BTS được mệnh danh là "Đại sứ du lịch danh dự" của Seoul khi dành được sự quan tâm lớn của du khách đến thành phố thông qua sáng kiến "Live Seoul Like I Do". Sự thành công của BTS đã đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc gia. Theo Viện nghiên cứu Hyundai, ước tính nhóm nhạc này mang đến hơn 3,6 tỷ USD cho nền kinh tế Hàn Quốc mỗi năm.

Làn sóng Hallya cũng “phủ sóng” toàn thế giới nhiều bộ phim truyền hình liên tiếp lập kỷ lục trên các nền tảng xã hội như Trái tim mùa thu (2000), Cô nàng ngổ ngáo (năm 2001), Bản tình ca mùa đông (năm 2002)... Nổi tiếng là năm 2020, bộ phim Hàn Quốc “Ký sinh trùng” đã lập kỳ tích khi giành tới 4 giải Oscar, gồm: Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc, Phim quốc tế xuất sắc và Kịch bản gốc xuất sắc. Không chỉ vậy, văn hóa Hàn Quốc còn mang ra thế giới hương vị văn hóa ẩm thực với các món ăn như kim chi, cơm trộn, Tokbokki và các lễ nghi, trang phục truyền thống.

Có thể nói, Hallyu “quả ngọt” mà chiến lược phát triển và đầu tư bài bản mang lại cho nền công nghiệp văn hóa Hàn Quốc, giúp xóa nhòa biên giới văn hóa Hàn Quốc với thế giới và tạo nên "quyền lực mềm" cho văn hóa xứ sở kim chi.

Nhờ hướng đi đúng, ngành công nghiệp văn hóa Hàn Quốc đã thành công theo lối đi riêng của mình, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên vị trí thứ 7 thế giới, tạo ra khoảng 680.000 việc làm mỗi năm. Sau hơn 2 thập kỷ tập trung phát triển, doanh thu từ công nghiệp văn hóa đã đóng góp cho nền kinh tế Hàn Quốc khoảng 120 tỷ USD/năm, chiếm 2,6% thị phần toàn cầu.

Công nghiệp văn hóa Việt Nam dần định hình một lối đi riêng

Việt Nam là một quốc gia đã có hàng nghìn năm lịch sử và có một nền văn hóa riêng, làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam.

Trong thời kỳ chiến tranh, nhiều giai điệu, âm từ trong lời các bài hát như Tiến quân ca, Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân, Cô gái mở đường, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây... đã trở thành vũ khí cổ vũ sức mạnh dân tộc, thôi thúc nhân dân vùng lên giành độc lập cho đất nước. Khi đất nước hòa bình, những âm vang của bài ca lại xoa dịu những mất mát, đau thương nhưng cũng không ít vinh quang, kiêu hãnh; là liều thuốc chữa lành những ám ảnh chiến tranh - miền ký ức không thể lãng quên, đánh đổi bằng tuổi trẻ, máu xương và hạnh phúc của thế hệ cha anh.

Trong thời đại mới, phát triển văn hóa được xác định là một nội dung quan trọng, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng quốc gia mà còn khẳng định thương hiệu quốc gia, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa đất nước. Để có một hành trình dài hạn, Việt Nam đã ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (theo Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016) và Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 (ban hành theo Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021).

Đến nay, thị trường Việt Nam đã hình thành một số thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa như: Điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, sách, tranh, hàng thủ công mỹ nghệ... Song song với thị trường trong nước, nhiều sản phẩm có chất lượng của Việt Nam cũng đã vươn ra thế giới.
 
Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Màu hoa đỏ” lần thứ 16
nhân kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2023)

Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận một thực tế là công nghiệp văn hóa Việt Nam còn thiếu các sản phẩm văn hóa đại chúng, chưa có sức thu hút trên toàn cầu để định hình thương hiệu quốc gia. Sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp văn hóa của Việt Nam không cao, chưa đa dạng, phong phú, kém hấp dẫn, thiếu tính độc đáo, ứng dụng nên chưa đáp ứng được thị hiếu và thẩm mỹ ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Sản phẩm văn hóa Việt Nam cũng chưa khai thác tối ưu đặc sắc văn hóa bản địa...

Đơn cử như lĩnh vực điện ảnh chưa thể hiện được sức mạnh nội lực của mình. Số lượng phim đặt hàng của Nhà nước có thể ra rạp khá khiêm tốn và hầu như chỉ chiếu trong các dịp kỷ niệm với số lượng khán giả hạn chế, được mời xem miễn phí. Trong khi đó lượng phim tư nhân ra rạp mỗi năm chưa nhiều, chưa tạo được sức hút như các phim nước ngoài. Dù số lượng phim sản xuất để phát trên các nền tảng số đã tăng nhưng nội dung chưa được kiểm soát tốt, không ít phim có nội dung phản cảm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị hiếu, thẩm mỹ và tâm lý của khán giả, nhất là giới trẻ. Một số phim Việt đã được phát hành ở thị trường nước ngoài nhưng chưa tạo được tiếng vang.

Trong lĩnh vực âm nhạc, bên cạnh những sản phẩm ghi được dấu ấn, gửi đến khán giả những thông điệp tích cực khi kết hợp và khai thác các chất liệu của văn hóa dân gian thì có những sản phẩm được đầu tư nhưng vẫn chưa mang đến sự khác biệt, chưa thật sự chạm vào cảm xúc người nghe. Thậm chí có những sản phẩm bị cho rằng đã và đang trở thành những món “fast-food”, phục vụ du khách theo những cách nghiệp dư hay dịch vụ một cách suồng sã.

Nguyên nhân là chúng ta chưa thực sự đầu tư một cách bài bản, chuyên nghiệp cho các sản phẩm văn hóa. Cùng với đó là những trở ngại về cơ sở hạ tầng, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa theo kịp thực tiễn phát triển.

Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển văn hóa so với nhiều nước trong khu vực. Đầu tiên, chúng ta có một di sản văn hóa phong phú, đa dạng và đậm nét bản sắc của 54 dân tộc anh em. Bên cạnh đó, Việt Nam có thị trường rộng lớn với hơn 100 triệu dân, trong đó có một lượng lớn là dân số trẻ năng động, nhạy bén tiếp cận với sự phát triển của công nghệ. Việc khán giả Việt sẵn sàng chi ra số tiền lớn để được xem thần tượng biểu diễn như sự kiện BlackPink cũng cho thấy thị trường âm nhạc Việt sôi động không kém. Hơn nữa, do đi sau nên ngành văn hóa Việt Nam có thể tiếp thu được nhiều kinh nghiệm phát triển văn hoá từ thành công của nhiều nước trên thế giới và có sự hậu thuẫn rất lớn của sự phát triển internet, công nghệ đang tạo ra thế giới phẳng trong sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0.

Để xây dựng thành công ngành công nghiệp văn hóa, trước hết chúng ta cần phải thay đổi tư duy, đánh giá đúng vai trò sức mạnh mềm của văn hoá. Văn hoá không chỉ đơn thuần là món ăn tinh thần của nhân dân mà sẽ là các sản phẩm đóng góp lớn vào GDP của đất nước trong tương lai. Do đó, các cơ quan quản lý, các địa phương cần xác định rõ và đánh giá đúng vai trò kinh tế của các ngành công nghiệp văn hóa, tạo điều kiện cho thị trường văn hóa phẩm phát triển bằng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế. Đồng thời có những biện pháp quản lý, kiểm soát hiệu quả để thị trường phát triển đúng hướng, phát huy hết tiềm năng và nội lực sáng tạo, bảo đảm “sức mạnh mềm” quốc gia được tạo nên từ những sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.

Giống như “một loại hàng hoá” mang tính đặc thù cao, để có thể tạo được “nền móng” công nghiệp văn hoá vững mạnh cần có sự chuẩn bị ở tất cả các khâu và điều đó rất cần sự chung tay, góp sức của các Bộ, ban ngành có liên quan và các địa phương.

Ở bất cứ một khâu nào trong nền công nghiệp văn hoá thì yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất. Chỉ với sự sáng tạo của con người, những giá trị nghệ thuật của tác phẩm mới được hiện thực hoá, thăng hoa, toả sáng và đến gần với khán giả. Do đó, cần tăng cường việc xây dựng đào tạo tài năng, nuôi dưỡng, phát triển và hỗ trợ các nghệ sĩ trẻ cũng như cần có sự chuẩn bị nền móng về nhân sự cho ngành công nghiệp sáng tạo này.
 
Một số tác phẩm tại Triển lãm “Nghệ thuật minh họa báo chí xuất bản Việt Nam 2023”

Bên cạnh đó, chúng ta cần xây dựng các công ty quản lý và sản xuất giải trí truyền thông chuyên nghiệp, từ việc quản lý nghệ sĩ, sản xuất âm nhạc, thiết kế hình ảnh đến tổ chức sự kiện và tour diễn để có thể xã hội hoá các hoạt động văn hóa. Nhà nước khi đó sẽ đóng vai trò là bệ đỡ, hỗ trợ các công ty giải trí thực hiện các ý tưởng sáng tạo của mình, từng bước xây dựng một thị trường sản phẩm văn hóa đa dạng, giàu sức sống. Các công ty sản xuất cần khai thác tiềm năng của công nghệ và kỹ thuật số để phát triển các dịch vụ âm nhạc trực tuyến, nền tảng streaming và tiếp cận người hâm mộ một cách hiệu quả.

Đích đến cuối cùng của một chuỗi các khâu trong nền công nghiệp văn hoá chính là khán giả. Do đó, trong một thế giới đa văn hóa như hiện nay, để tăng sức cạnh tranh, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không những phải đa dạng, hấp dẫn, mang bản sắc văn hóa riêng mà còn cần tương thích với những giá trị chung của toàn cầu./.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định rõ: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”
 

(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.145)
Bích Ngọc