Quy hoạch phát triển cảng hàng không Việt Nam: Tạo động lực phát triển kinh tế -xã hội địa phương và cả nước

|

Quy hoạch phát triển cảng hàng không Việt Nam: Tạo động lực phát triển kinh tế -xã hội địa phương và cả nước


Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 648/QĐ-TTg vào tháng 6/2023. Theo Cục Hàng không Việt Nam, với Quy hoạch này, nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không sẽ gấp 4 lần giai đoạn trước, sớm hình thành những trung tâm vận tải hàng không đầu mối, mang tính lan tỏa và nâng cấp toàn diện hạ tầng hàng không, từ đó chắp cánh cho phát triển kinh tế -xã hội tại các địa phương và cả nước trong thời gian tới.

Thực trạng hạ tầng hàng không Việt Nam

Theo thống kê của Cục Hàng không Việt Nam, cả nước hiện có 22 cảng hàng không đang khai thác, gồm 9 cảng hàng không quốc tế (Nội Bài, Vân Đồn, Cát Bi, Phú Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc) và 13 cảng hàng không nội địa (Điện Biên, Thọ Xuân, Vinh, Đồng Hới, Chu Lai, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Liên Khương, Cà Mau, Rạch Giá và Côn Đảo). Hệ thống mạng cảng hàng không toàn quốc phân bổ tương đối hài hòa, hợp lý, đảm bảo khả năng tiếp cận của 96% dân số trong bán kính 100km, cao hơn mức trung bình của thế giới (75%), tương đương các nước phát triển và trong khu vực. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận và sử dụng loại hình vận tải bằng đường hàng không.

22 cảng hàng không hoạt động theo mô hình trục nan, trong đó hai cảng hàng không quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất là hai đầu mối chính, đóng vai trò gom hành khách, hàng hóa, kết nối với các đường bay quốc nội và quốc tế, không chỉ đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa bằng đường hàng không mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn.

 
Ảnh minh họa

Bộ Giao thông vận tải cho biết, giai đoạn 2011-2020, nguồn vốn huy động vào các cảng hàng không đạt 95 nghìn tỷ, trong đó ngân sách nhà nước khoảng 13,5%, còn lại là nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước và nguồn vốn PPP (đối tác công tư). Hiện có 21 cảng hàng không đang khai thác do nguồn vốn nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đầu tư. Riêng Cảng hàng không Vân Đồn là dự án thu hút đầu tư theo hình thức PPP đầu tiên tại Việt Nam.

Trong nhiều năm qua, ngành hàng không Việt Nam đã ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc. Giai đoạn 2011-2019, tốc độ phát triển của ngành hàng không Việt Nam rất cao, trung bình từ 16-18%/năm. Hiệp hội Vận tải Hàng không quốc tế (IATA) đánh giá, Việt Nam là nước có tốc độ phát triển hàng không nhanh nhất khu vực Đông Nam Á và nhanh thứ 5 thế giới. Tuy nhiên, việc tăng trưởng vận tải hàng không với tốc độ cao thời gian qua đã và đang tạo áp lực lớn lên kết cấu hạ tầng hàng không.

Giai đoạn 2011 – 2019, kết quả đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không Việt Nam đạt được công suất thiết kế cho các cảng hàng không là 95 triệu lượt hành khách/năm. Trong khi thực tế thời điểm cao nhất trước Covid-19 (năm 2019), sản lượng thông qua các cảng hàng không của Việt Nam đã đạt 116,5 triệu hành khách/năm. Do đó, sản lượng khai thác của hệ thống sân bay vượt khoảng 20 triệu lượt khách so với công suất thiết kế. Với lưu lượng như vậy, một số cảng hàng không đã quá tải hạ tầng, tập trung chủ yếu vào các cảng hàng không đầu mối lớn của cả nước như: Cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Cam Ranh, Đà Nẵng.

Các chuyên gia hàng không đánh giá, hệ thống sân bay Việt Nam hiện đang đối mặt với tình trạng quá tải. Theo đó, về nhu cầu hàng không, sản lượng hiện tại khoảng 100 triệu khách/1 năm. Trong khi đó, theo quy hoạch của Chính phủ, đến năm 2030 sẽ là 279,5 triệu khách, gấp 2,7 lần. Với tốc độ tăng trưởng nhanh như hiện nay, chỉ cần khoảng 3-5 năm nữa, lượng khách sẽ tăng gấp đôi. Vì vậy, các dự án đầu tư phát triển về hạ tầng hàng không, sân bay cần phải sớm được triển khai để đáp ứng tốc độ tăng trưởng ngày càng lớn của ngành hàng không.

Quy hoạch mới tạo động lực phát triển kinh tế xã hội địa phương và cả nước

Để hướng tới mục tiêu phát triển hệ thống cảng hàng không theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu vận tải, hội nhập quốc tế sâu rộng, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 648/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với những mục tiêu cụ thể.

Theo đó, giai đoạn đến năm 2030, phát triển hệ thống cảng hàng không theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu vận tải, hội nhập quốc tế sâu rộng; bảo vệ môi trường, tiết kiệm các nguồn tài nguyên; bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Tổng sản lượng hành khách thông qua các cảng hàng không khoảng 295 triệu hành khách và khoảng 4,1 triệu tấn hàng hóa.

Quy hoạch đưa ra 8 cảng hàng không mới được hình thành, gồm: Long Thành, Lai Châu, Sa Pa, Nà Sản, Quảng Trị, Phan Thiết, Thành Sơn, Biên Hòa. Trong đó, cảng hàng không Long Thành đang xây dựng; các cảng hàng không mới như Phan Thiết, Quảng Trị, Sapa, đã được Thủ tướng giao Ủy ban Nhân dân các tỉnh là cơ quan quyết định đầu tư và các địa phương đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư theo hình thức PPP.

Với các cảng hàng không mới đưa vào quy hoạch như: Thành Sơn, Biên Hòa, Cục Hàng không Việt Nam đang xây dựng kế hoạch và trình Bộ Giao thông vận tải lập quy hoạch chi tiết, dự kiến hoàn thành năm 2024 để làm cơ sở đầu tư.

Đối với các cảng hàng không như Lai Châu, Nà Sản, đây là các cảng hàng không mới chưa xây dựng, huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư theo hình thức PPP. Việc xác định tiêu chí nhà đầu tư sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Quy hoạch cũng ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội (Cảng hàng không quốc tế Nội Bài) và vùng TP.HCM (Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và Long Thành). Theo đó, Thủ đô Hà Nội dự kiến sẽ bổ sung thêm cảng hàng không thứ hai để hỗ trợ cho Cảng hàng không quốc tế Nội Bài khi đạt quy mô khoảng 100 triệu hành khách/năm, đáp ứng mục tiêu hình thành hai trung tâm vận tải hàng không đầu mối trung chuyển quốc tế mang tầm cỡ khu vực tại vùng Thủ đô Hà Nội và vùng TP. Hồ Chí Minh.

Với số lượng cảng hàng không được quy hoạch như trên sẽ đảm bảo đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 có trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng hàng không trong phạm vi 100km, cao hơn mức trung bình của thế giới hiện nay (75%) và tương đương với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.

 
Theo Quy hoach mới, tổng mạng cảng hàng không sẽ được mở rộng từ 22 cảng hàng không hiện hữu lên 30 cảng hàng không giai đoạn đến năm 2030 và 33 cảng hàng không giai đoạn đến 2050.

Tổng nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không dự kiến giai đoạn 2021-2030 khoảng 420 nghìn tỷ đồng và đến năm 2050 hơn 1 triệu tỷ đồng.

Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã thể hiện đặc điểm riêng vai trò quan trọng của mạng lưới cảng hàng không trong việc tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương và trên cả nước./.

 
Thu Hường