Thúc đẩy chuỗi cung ứng dịch vụ khoa học và công nghệ

|

Phát triển sản phẩm đặc trưng của địa phương và vùng là yêu cầu cấp bách. Trong đó cần ứng dụng khoa học và công nghệ (KH và CN) nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao số lượng sản xuất; canh tác, chuẩn hóa chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, cần các định hướng dẫn đường từ các cơ quan nhà nước trong hoạch định chương trình và chính sách;  liên kết và phối hợp các tổ chức cung ứng dịch vụ KH và CN.

Mới đây, Bộ KH và CN đề xuất xây dựng mô hình chuỗi cung ứng dịch vụ KH và CN phục vụ liên kết vùng, phát triển các sản phẩm chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). ĐBSCL có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của đất nước, với các lợi thế lớn về phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, du lịch, năng lượng tái tạo, là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm hỗ trợ phát triển ĐBSCL, điển hình như Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập quốc tế và ứng phó biến đổi khí hậu đặt ra nhiệm vụ cần nghiên cứu ứng dụng nâng cao chất lượng và phát triển, thương mại hóa các sản phẩm đặc trưng của từng địa phương trong vùng theo tiêu chuẩn thời kỳ hội nhập quốc tế. 

Thời gian qua, ĐBSCL đã hình thành các tiểu vùng liên kết như Đồng Tháp Mười, bán đảo Cà Mau, Tứ giác Long Xuyên, các tỉnh duyên hải phía đông. Thí dụ, các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long và Trà Vinh liên kết phát triển chuỗi giá trị các sản phẩm nông sản chủ lực, liên kết về phát triển kết cấu hạ tầng, về quy hoạch vùng sản xuất các sản phẩm chủ lực, thế mạnh của các địa phương… Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ KH và CN, trong liên kết vùng ĐBSCL còn nhiều hạn chế. Thế mạnh của các tỉnh trong vùng là sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn có tình trạng cạnh tranh lẫn nhau. Việc đầu tư bị trùng lặp, dàn trải, không gian kinh tế vùng bị chia cắt khiến nguồn lực phân tán, không thể phát huy tiềm năng của cả vùng; thiếu và yếu trong kết nối giao thông, cơ sở hạ tầng. 

Bên cạnh đó, nguồn lực lao động còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu triển khai các nhiệm vụ KH và CN của vùng; năng lực tiếp thu công nghệ, trình độ công nghệ còn lạc hậu, năng suất thấp. Chủ trương liên kết còn chung chung, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hoạt động trên tinh thần tự nguyện thực hiện các nhiệm vụ KH và CN. Thậm chí, còn chồng lấn trong các nhiệm vụ KH và CN do thiếu nguồn thông tin. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp chưa cao, chưa bền vững, quy hoạch sử dụng đất cho sản xuất nông nghiệp tại nhiều địa phương không ổn định… 

Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Long An Mai Văn Nhiều cho rằng, để liên kết vùng ĐBSCL hiệu quả, cần khắc phục những hạn chế hiện nay như: phải có giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao; quy trình sản xuất sạch, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, cần chế biến ra nhiều sản phẩm để tạo giá trị cao hơn. Từ đó xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu các sản phẩm chủ lực của vùng. Các khâu này đều cần có sự tác động mạnh của KH và CN. Thời gian qua, chỉ có số ít sản phẩm của vùng đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong và ngoài nư??c, nhưng vẫn chưa được đồng bộ trong các khâu nêu trên.

Nhiều ý kiến của các chuyên gia cho rằng, cần xây dựng mô hình chuỗi cung ứng dịch vụ KH và CN để liên kết vùng, thúc đẩy các sản phẩm chủ lực của ĐBSCL. Các doanh nghiệp ở ĐBSCL còn gặp khó khăn do năng lực nghiên cứu thấp, năng lực tìm kiếm, lựa chọn công nghệ phù hợp, ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa cao. Vì vậy, cần có sự hiện diện của tổ chức trung gian thực hiện các dịch vụ KH và CN để kết nối giữa các tổ chức tài chính, các đơn vị nghiên cứu, sở hữu công nghệ với các doanh nghiệp. Mô hình chuỗi cung ứng dịch vụ KH và CN phục vụ liên kết vùng cần có các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp KH và CN, tổ chức trung gian, khách hàng, thị trường. Các đầu mối này sẽ tương tác với nhau, từ bước đầu tiên của chuỗi giá trị nông sản cho đến khi đến tay người tiêu dùng, và sẽ hỗ trợ giải quyết các vấn đề phát sinh. 

Thứ trưởng Bộ KH và CN Lê Xuân Định cho rằng, sự liên kết hợp tác giữa những người trực tiếp sản xuất với các tác nhân khác trong các khâu liên kết cần thể hiện cụ thể ở các nội dung: Liên kết hợp tác với các nhà khoa học, các chuyên gia trong giai đoạn nghiên cứu nâng cao chất lượng và bảo tồn các sản phẩm địa phương của vùng; liên kết hợp tác với các tổ chức KH và CN địa phương trong thông tin và chuẩn hóa chất lượng các sản phẩm và liên kết hợp tác với doanh nghiệp trong quá trình thương mại điện tử và kinh doanh sản phẩm thông qua các kênh phân phối sẵn có. Quá trình liên kết này nhằm nâng cao và phát triển quy mô chuỗi cung ứng sản phẩm, tạo tiền đề thúc đẩy kinh tế vùng, tăng chất lượng cuộc sống của người nông dân trực tiếp sản xuất.